Nature’s Bounty Vitamin D3 cung cấp 125 mcg (5000 IU) dạng vitamin D mạnh dưới dạng một viên nang mềm mỗi ngày một lần. Vitamin D có thể hoạt động như một hormone trong cơ thể vì nó có liên quan đến việc điều chỉnh một số chức năng rất quan trọng. Thường được gọi là vitamin ánh nắng vì nó được tổng hợp trong da khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Công dụng Viên uống Vitamin D3 Nature’s Bounty 125mcg 5000IU của Mỹ
- Bổ sung Vitamin D3 mỗi ngày giúp tăng sức đề kháng, tăng cường hệ miễn dịch, phòng tránh virus, vi khuẩn, bảo vệ xương răng chắc khỏe, kháng viêm, quan trọng nhất là Vitamin D giúp tăng cường chức năng miễn dịch và bảo vệ sức khỏe toàn diện.
- Viên uống bổ sung Vitamin D3 Nature’s Bounty Mỹ hỗ trợ cơ thể nhanh hấp thụ Vitamin D và Canxi, phòng các bệnh về xương khớp và chống loãng xương.
- Hỗ trợ sức khoẻ cho hệ thần kinh và cơ bắp, giúp ngủ ngon và sâu giấc.
- Viên uống Vitamin D3 Nature’s Bounty 400 viên của Mỹ dễ nuốt và dễ thẩm thấu vào cơ thể vì viên nang mềm chứa chất lỏng dễ hoà tan.
- Viên uống Nature’s Bounty Vitamin D3 có thành phần Vitamin D3 hoạt động mạnh mẽ tới 125mcg, rất cần thiết cho sức khoẻ, nhất là hệ miễn dịch, hệ thần kinh và cơ bắp.
- Việc thiếu ánh sáng mặt trời có thể làm giảm hàm lượng Vitamin D trong cơ thể, đặc biệt là vào mùa đông, mùa mưa, và môi trường sống thiếu ánh nắng mặt trời.
- Vitamin D3 giúp cơ thể duy trì hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, hỗ trợ hấp thu các dưỡng chất cần thiết nhất.
- Vitamin D trong cơ thể xuất phát từ cả hai nguồn thức ăn và từ tiếp xúc ánh nắng mặt trời,nhu cầu của mỗi người có thể khác nhau rất nhiều.
- Nên tiêu thụ ít nhất 600 IU mỗi ngày cho người lớn và 800 IU mỗi ngày cho người từ 71 tuổi trở lên.
- Những người sống ở vùng khí hậu lạnh, vùng phía Bắc hoặc những người ngại tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thì càng nên bổ sung viên uống Vitamin D mỗi ngày.
- Nguồn thực phẩm cung cấp Vitamin D: dầu gan cá, một số loại cá béo, cá thu, cá hồi và cá mòi, gan, lòng đỏ trứng, sữa, bánh mì, ngũ cốc và nước cam cũng có thể bổ sung vitamin D cho cơ thể.
Cách sử dụng Vitamin D3 Nature’s Bounty 125mcg
- Người lớn uống 1 viên/ngày tốt nhất là sau bữa ăn.
Lưu ý khi sử dụng:
- Nếu bạn đang mang thai, cho con bú, dùng bất kỳ loại thuốc nào, kể cả thuốc làm loãng máu, lên kế hoạch cho bất kỳ thủ tục y tế hoặc phẫu thuật hoặc có bất kỳ tình trạng y tế nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
- Ngừng sử dụng và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có bất kỳ phản ứng bất lợi nào xảy ra.
- Tránh xa tầm tay trẻ em
- Bảo quản ở nhiệt độ phòng
Vitamin D là gì?
Vitamin là các hợp chất hữu cơ cần thiết trong chế độ ăn uống của con người với số lượng nhỏ. Một hợp chất hữu cơ nói chung là bất kỳ hợp chất hóa học nào có chứa carbon. Để một hợp chất hữu cơ được coi là vitamin, việc thiếu hợp chất trong chế độ ăn uống phải dẫn đến các triệu chứng thiếu hụt.
Vitamin D là một loại vitamin tan trong chất béo có thể thu được thông qua các phương tiện ăn kiêng hoặc được tổng hợp trong da khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Cholecalciferol hoặc vitamin D3, dạng vitamin D được hình thành trong da, là một dạng mạnh mẽ và tích cực của vitamin. Ergocalciferol hoặc vitamin D2 là một chất tương tự vitamin D được hình thành trong thực vật, nấm và nấm men trong quá trình quang hợp. Mặc dù vitamin D2 đôi khi được sử dụng trong việc tăng cường thực phẩm, nhưng Nature Bounty Vitamin D3 cung cấp dạng hoạt động.
Tại sao phải bổ sung Vitamin D?
Việc cung cấp không đủ canxi và vitamin D rõ rệt hơn ở phụ nữ so với nam giới. Nếu bạn không nhận đủ vitamin D mỗi ngày, bạn có thể không hấp thụ đủ canxi từ thực phẩm bạn ăn và cơ thể bạn sẽ phải lấy canxi từ xương.
Nguồn thực phẩm tự nhiên của vitamin D bị hạn chế và bao gồm dầu gan cá tuyết, gan và một số loại cá béo như cá thu, cá hồi và cá mòi. Lòng đỏ trứng từ gà mái được cho ăn vitamin D và nấm đã tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc tia UV cũng cung cấp vitamin D. Ở Mỹ, sữa được bổ sung vitamin D nhưng không phải tất cả các sản phẩm được làm từ sữa, chẳng hạn như phô mai , chứa vitamin D vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra nhãn. Một số ngũ cốc, bánh mì, nước ép trái cây và sữa không sữa cũng có thể được tăng cường.
Mặc dù cơ thể chúng ta có thể tổng hợp vitamin D, nhưng nhiều người trong chúng ta đang thiếu hụt chất dinh dưỡng quan trọng này. Cư dân của vùng khí hậu phía bắc có thể tiếp xúc không đủ với ánh sáng mặt trời để sản xuất đủ vitamin D, đặc biệt là trong những tháng mùa đông. Bạn có thể sử dụng bóng của bạn như một công cụ dự đoán tổng hợp vitamin D. Khi bạn ngắn hơn bóng của bạn, cường độ của mặt trời không đủ để kích thích sản xuất vitamin D. Các điều kiện khí quyển như ô nhiễm không khí và sự hiện diện của các đám mây cũng có thể có tác động lớn đến cường độ bức xạ UVB đạt tới đất.
Ngay cả trong điều kiện lý tưởng, các hành động chúng ta thực hiện để bảo vệ làn da khỏi các tia có hại của mặt trời có thể ảnh hưởng đến tình trạng vitamin D của chúng ta. Hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và mặc quần áo bảo hộ như mũ và áo dài tay gây ức chế cơ thể Sản xuất vitamin D. tự nhiên. Ngay cả việc áp dụng kem chống nắng sẽ làm giảm tổng hợp vitamin D. Khi được sử dụng theo chỉ dẫn, kem chống nắng được phân loại SPF-10 sẽ ngăn chặn 90% bức xạ UVB đến da. Bức xạ UVB là cần thiết để kích thích sản xuất vitamin D. Nội sinh là một yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tình trạng vitamin D vì da sản xuất vitamin D kém hiệu quả khi chúng ta già đi. Hấp thụ vitamin D cũng có thể giảm theo tuổi tác, giúp bổ sung vitamin D đặc biệt có lợi cho người già.
Lợi ích của Vitamin D
Vitamin D có lẽ được biết đến nhiều nhất với vai trò của nó đối với sức khỏe của xương. Nó giúp phát triển xương và răng chắc khỏe bằng cách tăng cường hấp thu canxi và phốt pho. Vitamin D cũng giúp thận hấp thụ lại canxi mà nếu không sẽ bị bài tiết. Một nghiên cứu khoa học cho thấy những người lớn tuổi tiêu thụ 5000 IU vitamin D cộng với một lượng nhỏ canxi mỗi ngày có thể duy trì các biện pháp mật độ xương khỏe mạnh. Trong nghiên cứu vitamin D và 320 mg canxi nguyên tố được dùng dưới dạng bánh mì tăng cường.
Vitamin D có thể hỗ trợ hệ thống miễn dịch bằng cách giúp điều chỉnh tế bào lympho T và B (tế bào T và tế bào B).